Dự thảo Báo cáo Chính trị trình Đại hội XIV của Đảng nhấn mạnh yêu cầu phát triển hài hòa và cộng hưởng giữa ba khu vực kinh tế gồm: doanh nghiệp nhà nước, doanh nghiệp tư nhân và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài (FDI), nhằm hình thành hệ sinh thái kinh tế thống nhất, tự chủ và bền vững. Đây được xem là trục động lực mới để Việt Nam bước vào giai đoạn phát triển sáng tạo, hội nhập sâu và nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia.

Dự thảo Báo cáo Chính trị trình Đại hội XIV của Đảng nhấn mạnh yêu cầu phát triển hài hòa và cộng hưởng giữa ba khu vực kinh tế.
Dự thảo Báo cáo Chính trị trình Đại hội XIV xác định rõ: “Phát triển kinh tế tư nhân là một trong những động lực quan trọng nhất của nền kinh tế; kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài là bộ phận cấu thành quan trọng.” Từ định hướng đó, yêu cầu đặt ra là làm sao để ba khu vực doanh nghiệp này không hoạt động tách biệt mà trở thành ba trụ cột tương tác, cộng hưởng trong cùng một hệ sinh thái phát triển thống nhất.
Theo TS. Huỳnh Thanh Điền - giảng viên Trường Đại học Nguyễn Tất Thành, trong bối cảnh toàn cầu hóa chuyển sang giai đoạn cạnh tranh chiến lược mới, Việt Nam cần có những doanh nghiệp dẫn dắt quốc gia đóng vai trò tiên phong trong đổi mới sáng tạo, chuyển giao công nghệ và hội nhập sâu vào chuỗi giá trị toàn cầu. Sức mạnh kinh tế không nằm ở từng doanh nghiệp riêng lẻ, mà ở sự kết nối và lan tỏa giữa các khu vực: doanh nghiệp nhà nước giữ vai trò nền tảng, FDI là kênh truyền công nghệ, và khu vực tư nhân là lực lượng bứt phá sáng tạo.
“Sau hơn bốn thập kỷ đổi mới, Việt Nam hiện có hơn 900 nghìn doanh nghiệp. Khu vực tư nhân đóng góp khoảng 45% GDP và 85% việc làm; khu vực FDI chiếm trên 70% kim ngạch xuất khẩu; trong khi doanh nghiệp nhà nước vẫn nắm giữ các ngành trụ cột như hạ tầng, năng lượng và tài chính. Tuy vậy, sự liên kết giữa ba khu vực này vẫn còn hạn chế: doanh nghiệp nhà nước chưa thể hiện rõ vai trò dẫn dắt; khu vực FDI chưa tạo được lan tỏa công nghệ đáng kể; khu vực tư nhân phần lớn nhỏ, phân tán, thiếu khả năng đổi mới và hội nhập chuỗi giá trị toàn cầu”, ông Huỳnh Thanh Điền nhận định.
Theo chuyên gia này, để khắc phục điều này, Việt Nam cần chuyển từ mô hình “ba khu vực song song” sang “ba trụ cột cộng hưởng”. Trước hết, doanh nghiệp nhà nước phải thực sự trở thành đầu tàu phát triển, không chỉ về quy mô mà cả năng lực công nghệ, hạ tầng và chuỗi cung ứng. Các tập đoàn trong lĩnh vực năng lượng, viễn thông, logistics, tài chính cần đảm nhận vai trò “kiến trúc sư nền tảng”, đầu tư vào hạ tầng số, năng lượng sạch và dữ liệu mở, tạo nền tảng cho khu vực tư nhân và FDI phát triển. Cùng với đó, cần đẩy mạnh cổ phần hóa gắn với tái cấu trúc quản trị, áp dụng chuẩn mực ESG, xếp hạng tín nhiệm quốc tế và tách biệt rõ chức năng kinh doanh, công ích.
Đối với khu vực FDI, cần chuyển từ mô hình “đối tác sản xuất” sang “đối tác phát triển”. Chính sách thu hút đầu tư nước ngoài nên gắn với yêu cầu chuyển giao công nghệ, tăng tỷ lệ nội địa hóa và mở rộng sự tham gia của doanh nghiệp Việt trong chuỗi cung ứng. Cần hình thành các liên minh FDI – nội địa, trong đó tập đoàn nước ngoài đóng vai trò đầu kéo, còn doanh nghiệp Việt đảm nhiệm vai trò vệ tinh sản xuất, cung ứng linh kiện, dịch vụ kỹ thuật và logistics. Đây là hướng đi giúp tăng tỷ lệ giá trị gia tăng trong nước và củng cố năng lực cạnh tranh quốc gia.
Khu vực tư nhân Việt Nam cần được định vị là trung tâm đổi mới sáng tạo, tạo ra giá trị gia tăng mới cho nền kinh tế. Dự thảo Báo cáo Chính trị trình Đại hội XIV nêu rõ yêu cầu “phát triển các tập đoàn tư nhân Việt Nam lớn, mạnh, ngang tầm khu vực và thế giới”. Để thực hiện, cần chính sách chọn lọc và nuôi dưỡng doanh nghiệp trụ cột trong các ngành như công nghệ số, nông nghiệp công nghệ cao, năng lượng tái tạo, vật liệu mới, logistics và tài chính xanh. Các doanh nghiệp này cần được trao cơ chế thử nghiệm chính sách (sandbox), được tiếp cận dữ liệu, tín dụng và hạ tầng ưu tiên, đồng thời có sự đồng hành của Nhà nước trong chiến lược xuất khẩu sản phẩm công nghệ và xây dựng thương hiệu quốc gia.
Song song với đó, cần xây dựng cơ chế hợp tác giữa ba khu vực trên nền tảng dữ liệu và chuỗi giá trị chung. Một “mạng lưới doanh nghiệp quốc gia” nên được hình thành để kết nối doanh nghiệp nhà nước, tư nhân và FDI trong các ngành ưu tiên như năng lượng sạch, vật liệu mới, bán dẫn và công nghiệp hỗ trợ. Hệ thống dữ liệu mở về cung – cầu, đầu tư và công nghệ sẽ giúp chia sẻ thông tin, giảm trùng lặp và thúc đẩy hợp tác. Bên cạnh đó, nên hình thành Quỹ đồng đầu tư công – tư – FDI để hỗ trợ các dự án chiến lược có tác động lan tỏa và đổi mới cao.
TS. Huỳnh Thanh Điền cũng cho rằng, cùng với chính sách, yếu tố con người, cụ thể là đội ngũ doanh nhân cần được chú trọng. Văn hóa doanh nghiệp, đạo đức kinh doanh, tinh thần hợp tác và trách nhiệm xã hội phải được coi là nền tảng mềm của sức cạnh tranh quốc gia. Cần có chương trình tôn vinh “doanh nghiệp dẫn dắt quốc gia” theo tiêu chí đóng góp thực chất cho đổi mới sáng tạo, tạo việc làm, xuất khẩu công nghệ và phát triển bền vững.
Khi ba khu vực, doanh nghiệp nhà nước tạo nền, khu vực FDI lan tỏa công nghệ và khu vực tư nhân bứt phá sáng tạo cùng vận hành trong một cơ chế cộng hưởng, Việt Nam sẽ hình thành “tam giác phát triển” mới. Sức mạnh nội sinh của nền kinh tế sẽ được củng cố, giúp đất nước từng bước vượt qua bẫy thu nhập trung bình, tiến tới mục tiêu trở thành nước công nghiệp hiện đại vào năm 2030 và nước phát triển vào năm 2045.
PV.