Mở rộng các động lực tăng trưởng cũ và tạo dựng động lực tăng trưởng mới đều khả thi nếu đạt được những tiến bộ về khoa học công nghệ, áp dụng đổi mới sáng tạo. Và để nhiệm vụ này dễ dàng hơn, câu chuyện lại quay trở về vấn đề hoàn thiện, cải cách thể chế.
Nhìn nhận vấn đề này, TS. Huỳnh Thanh Điền (Trường Đại học Nguyễn Tất Thành) cho rằng, đầu tiên phải tháo gỡ khó khăn, xác định mục tiêu đúng và đổi mới cách thức hỗ trợ, tài trợ cho hoạt động nghiên cứu khoa học công nghệ. Cả 3 vướng mắc này cần phải giải quyết đồng thời, từ đó, điều hướng lại đích đến của hoạt động nghiên cứu khoa học công nghệ, để biến nó thành động lực của tăng trưởng kinh tế dài hạn và bền vững.
Thứ nhất, hoạt động nghiên cứu khoa học cơ bản là tạo ra những nền tảng cho các nghiên cứu ứng dụng có thể thương mại hoá hoặc ứng dụng rộng rãi trong đời sống. Đối với nghiên cứu cơ bản, nguồn tài trợ chính phải đến từ ngân sách Nhà nước và ngân sách Nhà nước cần ưu tiên tài trợ cho những nghiên cứu đạt được mục tiêu này.
Đối với nghiên cứu khoa học ứng dụng, mục tiêu quan trọng phải là thương mại hoá. Các nghiên cứu hướng đến công bố quốc tế, làm đẹp hồ sơ của nhà khoa học hay mang tính chất quảng bá cho các viện, trường đại học… sẽ phải dựa vào nguồn ngân sách của chính cá nhân đó hay các tổ chức giáo dục đã nêu. Nguồn tiền từ các quỹ khoa học công nghệ được rót ngân sách không nên tài trợ cho các nghiên cứu dạng này.
Ngay cả các nghiên cứu khoa học ứng dụng cũng phải dựa vào tính chất thương mại hoá để tìm nguồn tài trợ, giảm bớt phụ thuộc vào ngân sách Nhà nước. Nhà nước tạo ra không gian và thể chế để hoạt động nghiên cứu khoa học nhằm đến thương mại hoá có thể được thực hiện ngay tại các doanh nghiệp, thông qua sự hợp tác giữa cá nhân nhà nghiên cứu với doanh nghiệp hoặc doanh nghiệp với các viện, trường, tổ chức khoa học…
"Từ khi các viện, trường đại học… nhắm đến việc công bố bài báo quốc tế, số lượng công bố quốc tế của Việt Nam tăng mạnh, gấp khoảng 8 lần trong giai đoạn 2011-2020. Nếu có chính sách khuyến khích nghiên cứu khoa học hướng tới thương mại hoá, có thể trông chờ vào một sự bùng nổ tương tự", TS. Huỳnh Thanh Điền so sánh.
Vấn đề thứ hai, theo vị chuyên gia, là phải hình thành được thị trường khoa học công nghệ, khuyến khích sự tham gia của mọi chủ thể trong xã hội vào việc đề xuất ý tưởng nghiên cứu khoa học, đổi mới sáng tạo, để người có ý tưởng có thể tham gia vào các nhóm nghiên cứu chuyên nghiệp, tạo cầu nối giữa người nghiên cứu và doanh nghiệp, biến các chúng thành các quy trình, phương pháp sản xuất hay sản phẩm trong thực tế.
Để thị trường này hoạt động trơn tru, hiệu quả, phải có quy định bảo vệ quyền sở hữu của người bán, bảo vệ quyền và lợi ích của người mua ý tưởng cũng như tính hợp pháp của các giao dịch khoa học công nghệ.
Thứ ba, trong việc thực hiện các đề tài nghiên cứu khoa học công nghệ dùng nguồn ngân sách Nhà nước, phải cởi bỏ các thủ tục hành chính, tạo môi trường thông thoáng, công nhận thông qua sản phẩm nghiên cứu để khuyến khích các nhà khoa học. Nghĩa là, cần phải xây dựng tiêu chí đối với các nghiên cứu khoa học cơ bản và ứng dụng, những đề tài nào phù hợp tiêu chí thì được nghiên cứu, nhà khoa học chủ động trong quá trình nghiên cứu và được đánh giá thông qua kết quả cuối cùng.
Cơ chế chi trả cho các nghiên cứu cũng phải được điều chỉnh, tránh biến nhà khoa học, nhà nghiên cứu thành cán bộ hành chính hay kế toán viên, chẳng hạn, có thể ứng trước một phần (nếu nhà khoa học không hoàn thành nghiên cứu thì trả lại tạm ứng, nếu không trả lại có thể bị hạn chế tham gia các đề tài, dự án khác…), hoặc chi trả toàn bộ sau khi nhận kết quả nghiên cứu.
Cùng với đó, cần có chính sách vừa khuyến khích vừa ràng buộc các viện trường hướng tới nghiên cứu khoa học có thể thương mại hoá, thay vì chăm chăm vào mục tiêu công bố quốc tế, xây dựng hình ảnh của cơ sở đào tạo, nghiên cứu. Theo đó, có thể quy định một phần trong quỹ nghiên cứu khoa học công nghệ của từng viện, trường phải được thể hiện bằng các sản phẩm thực tế.
Cuối cùng, phải kích hoạt được mạnh mẽ hơn các nguồn đầu tư tư nhân cho hoạt động nghiên cứu khoa học và sử dụng các thành quả nghiên cứu khoa học.
Theo quy định của pháp luật hiện tại, doanh nghiệp tư nhân được trích tối đa 10% thu nhập tính thuế hàng năm để lập quỹ phát triển khoa học và công nghệ của doanh nghiệp. Tuy nhiên, muốn vận hành quỹ này, doanh nghiệp cũng phải tuân thủ nhiều thủ tục hành chính, tương tự như hoạt động nghiên cứu khoa học dùng ngân sách hiện tại.
Vậy nên, các doanh nghiệp hoặc là không mặn mà với việc thành lập quỹ, hoặc thành lập quỹ thiên về chi tiêu cho mua sắm thiết bị, giải pháp công nghệ, chi cho nhân sự… thay vì tập trung vào những nghiên cứu khoa học có thể ứng dụng chính tại doanh nghiệp. Thay vì cách đánh giá dựa trên quy trình, có thể đánh giá dựa trên kết quả, khuyến khích doanh nghiệp nghiên cứu, nộp kết quả và được xét giảm trừ thuế thu nhập trên kết quả này.
Bên cạnh đó, khuyến khích hình thành các quỹ bảo trợ tư nhân cho nghiên cứu khoa học công nghệ. Đây sẽ là nơi để người có ý tưởng tìm đến, hội đồng quản lý quỹ sẽ thẩm định, nếu đạt sẽ hỗ trợ để khởi nghiệp, ươm tạo một thời gian cho tới khi sáng kiến đó biến thành sản phẩm thương mại hoá mang lại lợi nhuận.
Nguồn lực duy trì các quỹ này sẽ đến từ đóng góp của các mạnh thường quân và nguồn thu lại từ các dự án mà họ đã đầu tư. Nhà nước tạo cơ chế để thành lập và vận hành các quỹ này, đồng thời, đề ra các chính sách khuyến khích các doanh nghiệp, đặc biệt là doanh nghiệp lớn, mạnh thường quân đóng góp nhân lực và vật lực cho các quỹ như vậy.
Hoàng Hạnh
https://baochinhphu.vn/dot-pha-the-che-muc-tieu-gan-song-hanh-muc-tieu-xa-10225020109514795.htm